Số người Công Giáo ở Hàn Quốc đã tăng đều đặn trong hai thập kỷ qua, mặc dù sự tăng trưởng có phần chậm lại trong những năm gần đây
Báo cáo do Viện Mục vụ Công Giáo Hàn Quốc công bố cho biết số Kitô hữu Công Giáo ở đây đã tăng 48.6% từ 3,946,844 tín hữu năm 1999 lên 5,866,510 tín hữu vào năm 2018.
Nếu tính theo từng giáo phận thì giáo phận Suwon, ngay phía nam Hán Thành, được ghi nhận có mức tăng cao nhất lên đến 89.1% trong giai đoạn 20 năm qua, tiếp theo là Daejeon ở miền trung Hàn Quốc với 79.6% và Uijeongbu, phía bắc thủ đô, với 78.9%.
Tỷ lệ người Công Giáo trong tổng dân số cả nước tăng từ 8.3% lên 11.1% trong giai đoạn 1999 - 2018. Nhưng tỷ lệ tham dự các thánh lễ của họ, được coi là một chỉ số chính về đời sống tôn giáo của các tín hữu, đã giảm từ 29.5% xuống còn 18.3%.
“Việc sụt giảm tỷ lệ tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật là đáng quan ngại. Tất cả các giáo phận đã thực hiện những nỗ lực đa dạng để mang các Kitô hữu trở lại nhà thờ, nhưng chưa có thay đổi đáng kể nào được ghi nhận cho đến nay. Vấn đề này đã được nhắc đi nhắc lại hàng năm,” báo cáo cho biết.
“Đây là thời gian để suy tư về công việc truyền giáo hiện nay của chúng ta và xem xét lại các phương hướng truyền giáo trong nước và ngay cả việc tái truyền giáo”.
Báo cáo cũng nhấn mạnh đến sự già hóa nhanh chóng của dân số Công Giáo. Những người ở độ tuổi 50, 60, 70 và 80 đã tăng lần lượt là 76.9%, 93%, 117% và 251.6%.
Trong khi đó, số lượng nữ tu giảm 41.5%. Năm 1999 có 24,227 nữ tu. Năm 2018 chỉ còn 14,167 dì.
Tuy nhiên, điều đáng mừng là số linh mục tăng 52.2 phần trăm từ 2,972 vị lên 4,456 vị trong giai đoạn 1999 – 2018. Số các nhà truyền giáo được phái ra nước ngoài đã tăng 204.2 phần trăm từ 356 vị vào năm 1999 lên 1,083 vị vào năm 2018.
Báo cáo của Viện Mục vụ Công Giáo Hàn Quốc cũng đề cập đến tình trạng của các tín hữu Công Giáo Bắc Hàn. Vào năm 1945, có khoảng 50,000 người Công Giáo tại các giáo xứ ở Bắc Triều Tiên. Trước Chiến tranh, Bình Nhưỡng đã từng được gọi là “Giêrusalem của phương Đông” và được coi là một trung tâm Kitô giáo ở Đông Bắc Á.
Khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950, hầu hết các linh mục ở Bắc Triều Tiên bị bắt, bị giết, hoặc mất tích. Quá trình phong chân phước đã bắt đầu cho 40 tu sĩ và nữ tu của Tu viện Tokwon Benedictine , đã bị Cộng sản giết chết.
Vào năm 1988, một “Hiệp hội Công Giáo Hàn Quốc” đã được chính phủ Cộng sản tạo ra và có 800 thành viên. Hiệp hội này không được Vatican công nhận, nhưng có một trong ba nhà thờ do nhà nước bảo trợ và hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ của chính quyền Cộng sản.
Thánh lễ thỉnh thoảng được tổ chức tại Nhà thờ Changchung ở Bình Nhưỡng khi có một linh mục nước ngoài đi du lịch qua, vào các ngày Chúa Nhật, phụng vụ được cử hành bởi một cư sĩ do nhà nước bổ nhiệm.
Sự đàn áp Kitô hữu ở Bắc Triều Tiên được ghi nhận là tàn bạo hơn hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, theo Open Doors, ước tính rằng có thể có tới 300,000 Kitô hữu đang thực hành đức tin “lén lút” ở Bắc Triều Tiên. Các Kitô hữu bị phát hiện sẽ bị bắt giữ, cải tạo trong trại lao động, hoặc, trong một số trường hợp, bị hành quyết vì đức tin.
Nhiều linh mục và mục sư đã lén đi vào Bắc Triều Tiên với hy vọng bí mật truyền giáo và nhiều người đã bị bắt, nhưng các tổ chức Kitô giáo ở Hán Thành tiếp tục phát các chương trình truyền bá Tin Mừng qua miền Bắc với hy vọng rằng ai đó sẽ có thể bắt được làn sóng phát thanh.