1. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi các gia đình noi gương Thánh Gia
Nhân ngày lễ Thánh gia Chúa Nhật 29/12 Đức Thánh Cha Phanxicô đã trình bày vai trò của từng người trong gia đình, nếu muốn gia đình được hạnh phúc.
Nhìn vào Gia đình Thánh gia, Đức Thánh Cha Phanxicô phân tích từng vai trò trong gia đình Nazaret, Mẹ Maria, người nữ tỳ khiêm hạ và thánh Giuse luôn rộng mở tâm lòng cho tác động của Chúa Thánh Thần.
Như những cô gái trẻ, Mẹ cũng có những chương trình cho tương lai, tuy nhiên khi Mẹ nhận được chương trình của Chúa mời gọi Mẹ cộng tác, Mẹ đã không ngần nhìn nhận mình là nữ tỳ của Chúa…
Kế đến là hình ảnh của thánh Giuse, Tin Mừng không ghi nhận một lời nào từ thánh nhân ngoại trừ vâng theo mệnh lệnh của Chúa bằng hành động. Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài định tâm từ bỏ Maria cách âm thầm kín đáo vì nàng đã có thai…
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhìn vào Chúa Giêsu, thành viên thứ ba của gia đình Thánh gia Nazaret. Ngài chính là người mà Chúa Cha đã hứa ban. Như thánh Phaolô đã viết khi thời gian sung mãn Ngài đã xuất hiện trong thời gian và là Người nắm trong tay mọi quyền năng vinh hiển
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên gia đình thánh gia như một khuôn mẫu của mọi gia đình. Ba khuôn mặt trong gia đình thánh đó thể hiện thánh ý ngàn đời của Thiên Chúa.
Trong buổi triều yết Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi mọi người hãy cầu nguyện cho các nạn nhân khủng bố tại Somalia và các nơi khác trên thế giới
2. Các Giám Mục Cameroon dành thời gian đến thăm các nhà tù vào ngày Giáng Sinh
“Chúa Kitô đến để giải thoát chúng ta khỏi tất cả các nhà tù của chúng ta,” Đức Tổng Giám Mục Samuel Kleder nói như trên khi ngài đến thăm các tù nhân trong nhà tù New Bell đông đúc ở Douala.
Đức Tổng Giám Mục nói rằng ngài không chỉ đề cập đến các nhà tù vật lý nơi mọi người đang chen chúc như nhà tù New Bell; nhưng đúng hơn, Chúa Kitô giải phóng “chúng ta ra khỏi các nhà tù trong tâm hồn chúng ta.”
Ngài nói chúng ta chỉ có thể giành lại được tự do của mình nếu chúng ta biết mở tâm hồn mình ra với Đức Kitô.
“Một khi anh chị em nhận ra tội lỗi của mình và thừa nhận rằng anh chị em đã sai lầm, anh chị em được tự do, anh chị em sẽ được hoán cải, và anh chị em có thể biết làm thế nào để tiếp tục,” ngài nói.
Tại Garoua, ở phía Bắc của Cameroon, Đức Giám Mục Faustin Ambassa Njodo nói: “Đức Kitô đi tìm con cái mình bất kể họ đang ở đâu.”
Nói chuyện với các tù nhân tại nhà tù Garoua, Đức Tổng Giám Mục nói: “Bất kể anh chị em đã làm những gì, Chúa sẽ đến với anh chị em. Nếu chúng ta quay trở lại với Kinh Thánh, Con Thiên Chúa đang nói với chúng ta rằng ngài là một thầy thuốc đi tìm những người bị bệnh. Điều đó có nghĩa là Chúa Giêsu đang đến không chỉ với những ai tin vào Ngài, nhưng đối với cả những kẻ có tội.”
Đức Cha Ambassa Njodo thúc giục các tù nhân mở rộng trái tim để tiếp nhận Chúa Kitô và họ sẽ có sự sống đời đời.
Các giám mục Cameroon đã bày tỏ mối quan tâm của các ngài về điều kiện giam giữ trong các nhà tù nơi cơ sở hạ tầng nghèo nàn và tình trạng quá đông có nghĩa là các quyền chính đáng của các tù nhân bị vi phạm hàng ngày. Số liệu từ Bộ Tư pháp trong năm 2016 cho biết con số tù nhân bị giam giữ trong các nhà tù lên đến 164.7 phần trăm sức chứa tối đa của các nhà tù ấy, và con số này dao động từ nhà tù này sang nhà tù khác.
Nhà tù New Bell ở Douala đang giam giữ khoảng 5,000 tù nhân, mặc dù ban đầu nó được xây dựng chỉ để giam 800 người. Như thế, con số tù nhân thực tế cao hơn công suất thiết kế đến 625 phần trăm. Nhà tù khét tiếng Kondengui ở Yaoundé có số tù nhân thực tế cao hơn công suất thiết kế 400 phần trăm vào năm 2016, và nhà tù trung tâm ở Maroua thường cao hơn 200 phần trăm khả năng của nó. Những con số này đã không thay đổi bao nhiêu trong 3 năm qua.
Và trong khi hàng giáo sĩ Cameroon tìm cách nâng đỡ tâm hồn các tù nhân, các vấn đề về công lý cho các tù nhân cũng được nêu ra. Đức Cha Kleder lưu ý rằng thẩm phán tốt cũng phải có lòng bác ái.
“Một thẩm phán làm công việc của mình một cách đúng đắn ... phải quan tâm đến tất cả mọi người, và những người bị giam trong tù cần phải được xét xử một cách đúng đắn. Đó là lòng bác ái.” Đức Tổng Giám Mục nói.
Đức Tổng Giám Mục lên án các giai đoạn giam giữ dài hạn trước khi xét xử. Thống kê chính thức cho thấy khoảng 55.5 phần trăm số tù nhân tại Cameroon là những người chưa có án nhưng đang bị giam hết năm này sang năm khác để chờ ngày xét xử.
3. Lời kêu gọi hòa bình là yếu tố chủ yếu trong thông điệp Giáng Sinh của các Giám Mục Cameroon
Ở một đất nước đang bị xâu xé bởi cuộc chiến ly khai ở miền Tây và cuộc chiến tranh khủng bố của Boko Haram ở phía Bắc, lời kêu gọi hòa bình là yếu tố chủ yếu trong thông điệp Giáng Sinh năm nay.
Đức Cha Ambassa Njodo đã vẽ ra một bức tranh ảm đạm về tình trạng suy thoái của Cameroon trong thời gian gần đây.
“Chúng ta có những anh chị em trong cùng một gia đình chiến đấu chống lại nhau, họ không ngồi cùng bàn ăn với nhau, và điều này là không bình thường”, Đức Tổng Giám Mục nói.
Trong vùng Tây Bắc, nơi một cuộc nổi dậy ly khai được gọi là “cuộc khủng hoảng với cộng đồng nói tiếng Anh” đã diễn ra trong ba năm qua, Cha Gilbert Aurore lưu ý rằng “chúng ta cần hòa bình, chúng ta cần phải yêu thương và chúng ta cần sự tha thứ.”
“Chúa Giêsu Kitô là Hoàng Tử Bình An đã mang đến hòa bình để chúng ta có thể trải nghiệm sự sống dồi dào”, vị linh mục nói.
Hai khu vực nói tiếng Anh của Cameroon - vùng Tây Bắc và Tây Nam - chiếm khoảng 20 phần trăm dân số Cameroon. 80% dân số còn lại nói tiếng Pháp. Hai khu vực nói tiếng Anh của Cameroon từ lâu đã phàn nàn vì bị chính phủ chủ yếu từ các khu vực nói tiếng Pháp gạt ra ngoài lề.
Năm 2016, các cuộc biểu tình ôn hòa của các giáo viên và các luật sư tại hai khu vực này chống lại việc áp đặt việc sử dụng tiếng Pháp trong các trường học và tòa án đã vượt ra ngoài vòng kiểm soát sau một cuộc đàn áp của chính phủ. Một phong trào cực đoan kêu gọi hai khu vực này ly khai khỏi Cameroon là kết quả của cuộc đàn áp này. Trong ba năm chiến đấu, hơn 3,000 người đã thiệt mạng và khoảng 700,000 người khác buộc phải rời bỏ nhà cửa của họ.
“Cuộc đổ máu này cần phải chấm dứt. Chúng ta đang mệt mỏi với cuộc chiến này,” Đức Cha Andrew Nkea là Giám Mục giáo phận Mamfe trong khu vực Tây Nam Cameroon nhận định.
Tại Giáo xứ Thánh Giuse ở Tkomberé, một vùng hẻo lánh về phía bắc của Cameroon, Cha Denis Daba cho biết ngài đã đưa ra trong bài giảng lễ Giáng Sinh một “thông điệp hòa bình và sống chung với nhau, bởi vì Chúa Kitô đã đến vì sự hiệp nhất của con cái Thiên Chúa, để lôi kéo họ đến gần với nhau hơn, đặc biệt là những người chưa biết Ngài”
Một thông điệp tương tự đã được lặp lại bởi Đức Tổng Giám Mục của tổng giáo phận Yaoundé Jean Mbarga. Trong một bài giảng tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vinh Thắng, Đức Tổng Giám Mục lưu ý rằng Giáng Sinh là khoảng thời gian “canh tân” đối với các gia đình, những người đã phải làm việc quần quật quanh năm. Ngài nói trong khi mọi người canh tân gia đình như vậy, họ nên mở rộng tâm hồn mình với Đức Kitô.
“Mọi người phải mở rộng trái tim mình để Thiên Chúa có thể quay lại với họ. Chúng ta cũng cần Thiên Chúa trở lại với không gian công cộng của chúng ta vì Thiên Chúa phải là nền tảng của tất cả mọi thứ chúng ta làm.”
Đức Cha Mbarga nói thêm chỉ khi “Thiên Chúa làm chủ cuộc sống của chúng ta”, chúng ta mới có thể có hòa bình ở Cameroon.
4. Sứ điệp Đức Thánh Cha gởi cho cộng đoàn Taizé nhân cuộc gặp gỡ tại Wrocław
Trước hết, chúng tôi xin gởi đến quý vị và anh chị em Sứ điệp Đức Thánh Cha gởi cho cộng đoàn Taizé nhân cuộc gặp gỡ tại Wrocław.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Khoảng 20,000 bạn trẻ Âu Châu đã tham dự cuộc gặp gỡ Âu Châu lần thứ 42 tại thành phố Wrocław của Ba Lan do cộng đoàn Taizé tổ chức. Cuộc họp diễn ra từ ngày 28 tháng 12, 2019 đến hết ngày 01 tháng Giêng năm 2020. Đây là lần thứ ba thành phố Wrocław đăng cai sự kiện này. Đó cũng là lần thứ năm cuộc gặp gỡ Taizé Âu Châu hàng năm được tổ chức tại Ba Lan.
Các cuộc họp mặt hàng năm tại Âu châu, theo trang web của Taizé, “là một phần trong cuộc hành hương niềm tin” được tổ chức trong hơn bốn mươi năm qua. Những người tham gia được trao cho cơ hội để “cầu nguyện với nhau, là một phần của một Giáo Hội địa phương, tăng cường sự hiểu biết giữa các dân tộc, khám phá các chủ đề như hòa bình, những vấn đề về đức tin và dấn thân xã hội.”
Chủ đề cụ thể cho cuộc gặp gỡ năm nay là “luôn luôn di chuyển, nhưng không bao giờ bị bật khỏi gốc rễ.”
Đồng hành trong lời cầu nguyện
Như mọi năm, Đức Thánh Cha đã gởi một sứ điệp tới những người tham dự. Sứ điệp này do Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ký tên. Trong sứ điệp, Đức Hồng Y Parolin đặc biệt nhắc đến sự kiện là cuộc gặp gỡ năm nay diễn ra tại Ba Lan, quê hương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và nói thêm rằng “người kế nhiệm vị thánh Giáo Hoàng, là Đức Thánh Cha Phanxicô” đồng hành với họ trong lời cầu nguyện, và khuyến khích họ khám phá sâu hơn chủ đề được chọn cho sự kiện này.
“Ba Lan là một quốc gia có nguồn gốc từ đức tin”, Đức Hồng Y nói; và nhấn mạnh rằng chính đức tin đã cho phép người dân Ba Lan “có thể đứng vững trong thử thách lớn lao, khi hy vọng xem ra đã tan vỡ.” Những Kitô hữu ở quốc gia này, theo Đức Hồng Y, “dám tin vào một tương lai khác”.
Bắt nguồn từ đức tin, được mời gọi để vươn ra với thế giới
Đức Hồng Y Parolin khuyến khích các bạn trẻ học hỏi từ tấm gương của các Kitô hữu Ba Lan, “để khám phá cùng nhau đến mức độ là việc đâm rễ sâu nơi đức tin có thể mời gọi các bạn và chuẩn bị cho các bạn vươn đến với những người khác, đối diện với những thách thức mới của xã hội chúng ta, đặc biệt là những nguy hiểm đang đè nặng lên ngôi nhà chung của chúng ta”.
Ngài nói thêm rằng, như Abraham, những người trẻ “sẽ khám phá ra có nhiều niềm vui khi cất bước trên một cuộc hành trình, mà thỉnh thoảng chúng ta không thể biết trước điểm đến.” Ngài hô hào các bạn trẻ “Luôn luôn sẵn sàng cho những khởi hành mới, để làm chứng cho Tin Mừng, và có mặt đầy đủ bên cạnh những người xung quanh các bạn, đặc biệt là những người nghèo nhất và kém may mắn nhất”.
Đức Hồng Y Parolin bảo đảm với các bạn trẻ rằng Đức Thánh Cha Phanxicô gửi phép lành của ngài đến tất cả mọi người tham dự cuộc gặp gỡ, đến cộng đoàn Taizé và các gia đình và giáo xứ mà họ cư ngụ trong suốt thời gian của cuộc gặp gỡ này. Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh kết luận sứ điệp với hy vọng rằng “đức tin của Mẹ Maria, Đấng đã ‘vội vã’ lên đường [đến thăm bà Elizabeth; cf. Lc 1:39), sẽ duy trì động lực trong niềm tin của các bạn nơi Con Mẹ”.
5. Lịch sử cộng đoàn đại kết Taizé
Mọi việc bắt đầu từ năm 1940, Thầy Roger khi ấy tròn 25 tuổi, quyết định rời Thụy Sĩ nơi Thầy được sinh ra đề đến sinh sống tại Pháp, quê mẹ Thầy. Trong những năm bị cơn bệnh lao hành hạ, phải liên tục nghỉ dưỡng, Thầy luôn bị thôi thúc trong quyết tâm sang lập một cộng đồng.
Đầu Thế chiến thứ 2, không để mất thêm thời gian, Thầy quyết định đến giúp đỡ, hỗ trợ mọi người qua cơn thử thách này – một việc làm ý nghĩa mà bà của Thầy cũng đã thực hiện trong những năm Thế chiến thứ 1. Thấy dừng lại và bắt đầu công việc của mình ở những ngôi làng nhỏ của Taizé, nơi giáp ranh với biên giới phân chia nước Pháp làm đôi: nó trở thành nơi trú ẩn cho những người tị nạn chạy trốn khỏi cuộc chiến. Bạn bè từ Lyon bắt đầu chuyền tay nhau địa chỉ của Taizé cho tất cả những ai cần một nơi trú chân an toàn.
Tại Taizé, nhờ những khoản tiền vay khiêm tốn, Thấy Roger đã mua được một căn nhà ở khá xa từ lâu không có người ở. Thầy cũng nhờ cậy một người chị em của mình là Genevieve đến giúp đỡ về hỗ trợ về các công việc y tế. Trong số những người tị nạn tại đây cũng có cả người Do Thái.
Nguồn lương thực ở đây rất hạn chế, không có nước ngọt nên họ phải ra các thị trấn tìm nước uống. Thức ăn thì cũng rất đơn sơ, chủ yếu là súp được làm từ bột ngô giá rẻ mua tại các nhà máy gần đó. Xa khỏi vùng trú ẩn, Thầy Roger thường cầu nguyện một mình, hoặc đi thật xa vào rừng để hát để không làm những người dân tị nạn, kể cả những người Do Thái không thấy phiền hà. Genevieve khuyên mọi người rằng nếu muốn, họ tốt nhất nên cầu nguyện một mình trong phòng.
Cha mẹ của Thầy Roger biết rằng con trai và con gái mình đang sống trong vùng nguy hiểm nên đã nhờ cậy một người bạn Pháp giúp họ trông nom 2 con. Mùa thu năm 1942, người Pháp này báo với Thầy rằng những hoạt động của họ tại Taizé có thể bị phát hiện và mọi người cần phải di tản đi. Vì thế mà từ đó cho đến hết Thế chiến thứ 2, Thầy Roger sống tại Geneva – nơi Thầy sống cùng các tu sĩ đầu tiên. Và họ trở lại Taizé vào năm 1944.
Sự cam kết phục vụ của các tu sĩ đầu tiên
Năm 1945, một luật sư trẻ trong vùng quyết định thành lập một nhóm hội tập hợp những trẻ em bị mồ côi cha mẹ trong chiến tranh. Ông đề nghị các Thầy nhận nuôi các em tại Taizé. Tuy nhiên, một dòng tu nam không thể đảm nhận việc nuôi trẻ nhỏ, vì thế Thầy Roger lại một lần nữa nhờ Genevieve trở lại để nhận nuôi những đứa trẻ này. Và vào những ngày Chúa Nhật, các Thầy cũng chào đón các tù nhân Đức, những người bị giam giữ trong một trại giam gần Taizé.
Dần dà, có thêm nhiều người đàn ông trẻ tìm đến nhóm tu sĩ ban đầu và vào Ngày Lễ Phục Sinh năm 1949, đã có 7 người trong số họ cam kết cùng nhau sống đời độc thân tận hiến trong điều kiện sống giản dị nhất.
Trong một lần tĩnh tâm dài mùa đông những năm 1952-1953, người sáng lập cộng đồng đã viết cuốn “Những quy định của Taizé” nhằm chia sẻ cùng các tu sĩ khác “những điều thiết yếu giúp khả thi hóa đời sống cộng đồng”
Đức Cố Giáo Hoàng John Paul II đã đến thăm Cộng Đồng Taizé vào ngày 5 tháng 10 năm 1986. Sau thời gian cầu nguyện với những người có mặt trên đồi, Ngài đã có cuộc gặp gỡ với các Thầy trong dòng.
Các Thầy thân mến, trong không khí thân mật của cuộc gặp gỡ này, tôi muốn được bày tỏ cảm xúc và sự tin tưởng của tôi vào những lời bộc bạch đơn sơ của Đức Cố Giáo Hoàng John XXIII, người đã rất mến mộ các thầy, trong lần chào đón Thầy Roger: “A, Taizé, Khoảnh khắc mùa xuân đây rồi!” Tôi ao ước Thiên Chúa luôn gìn giữa các thầy như mùa xuân đang triển nở và giúp các thầy luôn đơn sơ trong niềm vui của Tin Mừng và tình huynh đệ thắm thiết.
Mỗi người trong các thầy đến đây để sống trong ân sủng của Thiên Chúa và trong tương quan cộng đồng với các anh em khác. Trong sự dâng hiến toàn bộ đời sống mình cho Chúa vì tình yêu của Ngài, các Thầy sẽ nhận được cả hai.
Nhưng hơn thế, tuy không chủ đích, các thầy đã thấy hàng ngàn bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới bị lôi cuốn bởi cách cầu nguyện và lối sống cộng đồng đã và đang đến với các thầy. Làm sao chúng ta có thể không nhận ra những bạn trẻ này là quà tặng và phương tiện mà Thiên Chúa đã trao tặng cho các thầy để khuyến khích các thầy tiếp tục cùng nhau, trong niềm hân hoan, như một mùa xuân cho tất cả những ai đang tìm kiếm một cuộc sống đích thực?
Lời Chúa truyền sức sống vào mọi thứ, mọi ngày, lúc các thầy làm việc, nghỉ ngơi, cầu nguyện và nhờ đó giữ các Thầy luôn đơn sơ hay như những đứa trẻ của Cha trên trời, anh em, người phục vụ tất cả trong niềm vui của các Mối Phúc Thật.
Tôi cũng không quên trong sứ mệnh hiện tại, dòng các Thầy đã tạo nên không ít ngạc nhiên, gặp hiểu lầm và cả nghi ngờ. Nhưng chính bởi vì khát vọng hòa giải cho tất cả các Kitô hữu thành một cộng đồng hiệp nhất và vì lòng yêu mến Giáo Hội, các Thầy sẽ có thể tiếp tục, tôi chắc chắn để mở đường tới ý định của Thiên Chúa.
Qua việc lắng nghe những nhận xét, đóng góp của các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội và cộng đồng Kitô khác nhau và giữ lại những gì là tốt đẹp, qua việc đối thoại nhưng không ngần ngại thể hiện mong muốn, quan điểm và dự định, các thầy sẽ không làm thất vọng các bạn trẻ, các thầy sẽ trở thành công cụ hiện thực hóa ý định của Thiên Chúa trong việc phục hồi một chi thể thống nhất trong Chúa Giêsu Kitô trong sự liên đới với tất cả những ai có chung niềm tin.
Các Thầy có biết cá nhân tôi luôn coi việc hòa giải tôn giáo là một điều thiết yếu trong thời gian đương nhiệm của tôi. Nó luôn chiếm trọng tâm trong sứ mạng của tôi và cũng vì thế mà tôi đặt sự tin tưởng vào lời cầu nguyện của các Thầy.
Bởi mong ước hình thành “ngụ ngôn cộng đồng”, các thầy sẽ giúp tất cả những ai mong muốn đặt niềm tin vào tôn giáo, theo thành quả học vấn và lựa chọn theo lương tâm họ, nhưng đều muốn tìm hiểu sâu hơn bí ẩn của sự hiệp nhất của Giáo Hội trong chương trình của Chúa.
Qua quà tặng của Thiên Chúa cho Giáo Hội, Chúa Giêsu đã giải phóng tình yêu trong mỗi Kitô hữu và ban cho họ một trái tim thống nhất toàn vẹn để trở thành những người kiến tạo công lý và hòa bình, có thể hợp nhất các suy tư của họ về một cuộc đấu tranh trong suốt chiều dài Tin Mừng để dành tư do trọn vẹn cho con người, cho mỗi người và toàn thể nhân loại.
Các thầy thân mến, Tôi cám ơn các thầy đã mời tôi và như thế cho tôi cơ hội được quay lại Taizé. Nguyện xin Thiên Chúa chúc phúc và luôn bảo bọc các Thầy trong bình an và tình yêu của Ngài.
6. Một “minh chứng về đời sống cộng đồng”
Ngày nay, Cộng đồng Taizé tập hợp hàng trăm tu sĩ, Công Giáo và các nhánh Tin Lành đến từ hơn 30 nước trên thế giới. Bằng sự tồn tại sống động của mình, cộng đồng Taizé chính là một minh chứng sinh động cho đời sống cộng đồng, nơi mà dấu ấn của sự hiệp thông, hòa giải thể hiện mạnh mẽ giữa các nhánh Thiên Chúa giáo và giữa những các dân tộc với nhau.
Các tu sĩ ở cộng đồng sinh sống chủ yếu nhờ công việc họ làm. Họ không nhận quà tặng từ thiện. Cũng vậy, họ không tích trữ tài sản cá nhân mà đưa cho cộng đồng dành tặng người nghèo.
Một số tu sĩ khác hiện đang sống tại các vùng khó khan, ngặt nghèo trên thế giới, để làm nhân chứng sống cho sự hòa bình và bình an nơi đó cũng như cho người dân sinh sống tại đó. Nhóm các Thầy tại Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ luôn chia sẻ mọi điều kiện sống cùng như người dân xung quanh họ. Các Thầy muốn dành đời mình để thể hiện tình yêu thương đối với những người nghèo, trẻ em đường phố, những tù nhân, những người hấp hối, và tất cả những kiếp sống c6 đơn, bị xã hội chối từ.
Trải qua nhiều năm, số lượng người trẻ đến với Taizé ngày càng động, họ đến từ khắp các châu lục để tham dự các buổi gặp gỡ, cầu nguyện hàng tuần. Các nữ tu dòng Thánh Andrê –Dòng tu quốc tế sáng lập cách đây 7 thế kỷ, các nữ tu dòng Ursuline Ba Lan và các nữ tu dòng Vincent de Paul luôn hỗ trợ cộng đồng phần tiếp đón các bạn trẻ.
Các vị lãnh đạo Giáo Hội cũng ghé thăm Taizé. Cộng đồng đã từng tiếp đón Đức Giáo Hoàng Phaolo đệ nhị, bốn Đức Tổng Giám Mục đến từ Canterbury, các đại giáo chủ Chính thống giáo, 14 vị Giám mục Lutheran đến từ Thụy Điển cùng rất nhiều mục sư đến từ khắp nơi trên thế giới.
Từ năm 1962, các tu sĩ và các bạn trẻ được Taizé gửi đến nhiều quốc gia vùng Đông Âu với ý thức cao về việc viếng thăm những người bị cô lập trong rào cản biên giới.
Thầy Roger qua đời ngày 16 tháng 8 năm 2005, thọ 90 tuổi, bị ám sát trong một buổi cầu nguyện tối. Từ đó đến nay, Thầy Alois – người được thầy Roger chọn làm kế nhiệm từ nhiều năm về trước – trở thành bề trên tổng quyền mới của cộng đồng Taizé.
7. Giới trẻ và cầu nguyện ở Taizé
Một trong các Thầy trăn trở: làm sao để các bạn trẻ có thể tham gia vào các buổi cầu nguyện; Thầy nhấn mạnh ba khía cạnh của cầu nguyện ở Taizé mà theo Thầy sẽ lôi cuốn các bạn trẻ.
Ba lần mỗi ngày, mọi hoạt động trên đồi Taizé sẽ dừng lại: các công việc, học hỏi Thánh Kinh, thảo luận nhóm. Tiếng chuông sẽ ngân vang mời gọi mọi người đến nhà thờ cầu nguyện. Hàng trăm, đôi lúc hàng ngàn bạn trẻ từ khắp các quốc gia trên thế giới bắt đầu cầu nguyện và hát cùng với các Thầy trong cộng đồng. Các bài hát ngắn với một số ít từ thể hiện thực tế đơn sơ được hát lập lại nhiều lần sẽ nhanh chóng thu hút mọi sự chú ý của họ. Sau đó, một đoạn Kinh Thánh sẽ được đọc ở nhiều ngôn ngữ khác nhau. Và trung tâm của buổi cầu nguyện chính là giây phút dài thinh lặng tạo cơ hội quý báu để gặp gỡ Thiên Chúa.
Chúng tôi, những tu sĩ, thực sự bị ấn tượng bởi những biểu hiện tuyệt vời của các bạn trẻ. Họ thường lưu lại nhà thờ, có khi hàng giờ và có khi là hàng ngày, để thing lặng hoặc hát tĩnh nguyện. Đôi khi chính họ cũng ngạc nhiên khi nhận ra mình đã dành rất nhiều thời gian cầu nguyện ở Taizé. Khi chúng tôi hỏi một số nhóm trước khi họ trở về nhà về điều gây ấn tượng nhất đối với họ khi lưu lại Taizé thì hầu hết câu trả lời đều là “cầu nguyện” – một câu trả lời chung mà không mấy bạn trẻ phải do dự khi chia sẻ với chúng tôi. Tuy nhiên, những bạn trẻ hào hứng kể về kinh nghiệm cầu nguyện của họ thì đều chia sẻ rằng họ cũng không “cảm” được một cách sâu sắc về cầu nguyện trong những lần đầu tiên.
Và rồi chúng tôi lại một lần nữa bị ngạc nhiên bởi những bạn trẻ. Điều gì đã khiến họ trở nên thật cởi mở trong cuộc đối thoại nội tâm lúc cầu nguyện? Làm sao chúng ta có thể giúp họ khám phá ra được rằng: ngay cả khi không biết cầu nguyện như thế nào hoặc không biết nói gì với Chúa, Người cũng đã đặt để nơi chúng ta khát vọng tìm kiếm sự hiệp nhất?
Nếu tôi không thực sự trả lời những câu hỏi trên, tôi không thể nhận ra được ba chiều kích của cầu nguyện ở Taizé mà theo tôi là rất thích hợp cho các bạn trẻ: cách cầu nguyện gần gũi, sự thinh lặng khi cầu nguyện và cầu nguyện bằng con tim.
8. Cách cầu nguyện gần gũi
Việc cầu nguyện trong cộng đồng đã được thay đổi một cách tương đối trong vài năm trở lại đây, nó đã trở nên đơn giản và dễ thực hiện hơn. Thầy Roger luôn quan niệm rằng các bước thực hiện trong việc cầu nguyện cần phải đơn giản và gần gũi. Đối với Thầy, việc đọc một đoạn Kinh Thánh quá dài hoặc quá phức tạp có thể ngăn cản mọi người cảm nhận mối tương quan tình yêu và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cầu nguyện.
Sự trăn trở về việc làm sao cầu nguyện nội tâm đến được với nhiều người đã giúp cho cộng đồng phát huy cách cầu nguyện thông qua những bài hát tĩnh nguyện. Nhưng không phải mọi thứ đều có thể điều chỉnh để phù hợp với giới trẻ. Nhìn từ một khía cạnh nào đó, các bài Thánh ca ở Taizé không phải được soạn cách riêng dành cho giới trẻ. Tôi tin rằng những bài hát của chúng ta đậm âm hưởng tu viện hơn. Bằng cách sử dụng những từ ngữ trong Thánh vịnh, chú trọng đến tính tĩnh lặng và tính lặp lại và tính đặc trưng, những bài hát cổ điển trong cầu nguyện là những bài hát rất dài bắt nguồn từ cộng đồng sơ khai Israel. Sơ khởi, cộng đồng cầu nguyện bằng việc hát các bài Thánh vịnh và điều đó được duy trì cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thay vì hát cả bài Thánh vịnh, chúng ta chỉ lặp lại một đoạn ngắn và đơn giản mà thôi, nhờ đó ta có thể “cảm” nó trong lúc tĩnh tâm và nó giúp ta hiểu được một cách thấu đáo ý nghĩa sâu xa bên trong.
9. Sự thinh lặng khi cầu nguyện
Cầu nguyện với những bài hát của Taizé cũng là một cách suy gẫm Kinh Thánh. Vào Ngày lễ Các Thánh tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy khoảng 2,500 bạn trẻ, học sinh trung học Pháp, hát một cách rất tự nhiên những câu như: “Hãy cho con được vui mừng và hoan hỷ trong tình yêu của Chúa”. Tôi có cảm nhận rằng, khi lập lại một hay hai câu Kinh Thánh, bài hát sẽ giúp chúng ta tiếp cận trực tiếp với Lời Chúa, dễ đi sâu và kết hợp với vẻ đẹp đôi khi “khó hiểu” của Kinh Thánh. Và như thế, khi đã quen thuộc, việc khám phá Lời Chúa sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Đôi khi tôi tự hỏi cách chúng ta hát có phải là một hình thức giới thiệu đến …, cách đọc Lời Chúa một cách chăm chú sẽ mở ra một khoảng trống để cho Lời Ngài vang vọng trong mọi khía cạnh cầu nguyện. Người Do Thái nói về việc “nhai” luật Torah, một trong những trích đoạn trong tập hợp các kinh Do Thái từ thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, “Hãy xoay vòng luật Torah ở mọi hướng, bởi vì mọi thứ có thể tìm thấy ở đó; chính nó sẽ mang đến cho bạn một kiến thức thực sự. Hãy trưởng thành trong việc học hỏi này và đừng bao giờ bỏ nó; không có gì tốt hơn mà bạn có thể làm” (Mishna Aboth 5, 25). Ở Taizé, việc lập lại các bài hát này cũng nhằm tạo tiếng vang, sự hấp thụ lời Chúa.
10. Lời cầu nguyện của con tim
Một khía cạnh khác cũng làm tôi ngạc nhiên không kém khi nghe các bạn trẻ nói về khả năng thời gian tĩnh lặng trong mỗi buổi cầu nguyện mang lại cho họ cơ hội tập trung vào những gì bên trong họ. Theo họ đó là: “để ngẫm lại những gì đã xãy ra”, “để lắng nghe trái tim của mình”, “để nghĩ về những vấn đề của mình”, “để không phải suy nghĩ”, “để nghỉ ngơi”, “để tìm kiếm bên trong tâm hồn”, “để trở về với chính mình”, v..v. Khi họ cùng bên nhau, họ không sợ thinh lặng. Trái lại, rất nhiều người cho rằng lúc đầu tưởng chừng mười phút là quá dài nhưng sau đó nó dường như vẫn chưa đủ.
Tôi tự hỏi những gì họ cố gắng dùng từ ngữ diễn đạt nhưng vẫn không thể hiện được cái mà người tín hữu phương Đông gọi là “Cầu nguyện của trái tim”, và cũng là “duy trì chăm sóc trái tim”, “thường xuyên trông chừng trái tim bạn một cách cẩn thận” theo Sách Cách Ngôn “bởi vì từ nó khơi dậy nguồn mạch sự sống” (Sách Cách Ngôn 4:23)
Trái tim là trung tâm của con người trong Kinh Thánh, một tâm điểm mà mọi nguồn lực hội tụ. Đối với các tu sĩ theo truyền thống Phương Đông, cầu nguyện bằng cách lập lại một đoạn ngắn ứng với nhịp thở là đầu tiên và trước hết đối với cầu nguyện bằng trái tim, nói cách khác, một nỗ lực hợp nhất tất cả sức lực để đưa vào ngọn lữa trái tim trong sự tôi luyện tình yêu. Bằng cách thống nhất mọi cảm nhận, nguồn lực, trái tim là nơi xuất phát các ý định tốt đẹp như dòng nước tinh khiết. Cầu nguyện khi thận trọng, tỉnh thức và lắng nghe giúp chúng ta tập trung, đặt lại những mong ước của bản thân và đồng bộ nó với tình yêu. Cầu nguyện là sử chuẩn bị cho trái tim sẵn sàng vượt qua những đòi hỏi của tình yêu.
Qua việc hát và thinh lặng, các bạn trẻ khám phá họ có thể đã có một trái tim mới, một trái tim đơn giản theo đúng nghĩa, một trái tim không tỳ vết. Những người tín hữu sơ khai thường nói việc cầu nguyện như một cách làm tan chảy những lớp “mỡ tinh thần” đè nặng suy nghĩ và mong ước của chúng ta. Hình ảnh của nếp gấp có thể tương ứng: một trái tim không nếp gấp là một trái tim đơn sơ, gần với những gì nó mong ước, trong cách mà Thiên Chúa mong muốn nó. “Tất cả mọi mong ước trong chúng ta với Chúa đã hình thành nên lời cầu nguyện. Ước muốn của bạn đã là lời cầu nguyện. Có một lời cầu nguyện bên trong mà không bao giờ ngừng: ước muốn của bạn. Khi bạn muốn cầu nguyện, đừng bao giờ ngừng ước ao (Thánh Augustino, Bài bình luận về Thánh vịnh 37).
Không cản trở, mở một sự trong suốt, trái tim cũng học cách mang quyết định và trực giác đến trưởng thành, trên bước đường của cuộc sống. Để có thể phân biệt những trường hợp nhạy cảm và kết thúc. Trong ý nghĩa đó, tôi hy vọng rằng các bạn trẻ có thể hiểu “Cầu nguyện không làm chúng ta xa lìa thế giới. Trái lại, không gì quý hơn cầu nguyện. Chúng ta càng làm cho lời cầu nguyện của mình càng đơn giản và khiêm nhường bao nhiêu, chúng ta càng tiến dần tới tình yêu và thể hiện nó trong cuộc sống của chúng ta.” Thầy Roger, Thư 2005, Một tương lai của Hòa Bình”.
Qua ba chiều kích này của cầu nguyện mà chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn trẻ: “Thoát khỏi chính mình”, “nhai” Phúc Âm và “lắng nghe chăm chú” trái tim, mong muốn lớn nhất của chúng tôi là làm cho họ nhận ra lời trăn trối của thầy Roger cho chúng tôi trong bức thư cuối cùng:
“Thiên Chúa ở mãi trong mỗi người chúng ta ngay cả trong nơi sâu thẳm nhất của sự cô đơn của chúng ta. Thiên Chúa nói với mỗi người chúng ta,`Ngươi là tạo vật quý giá trước mặt ta, ta quý trọng ngươi và yêu ngươi. Đúng vậy, tất cả những gì Thiên Chúa làm là trao ban tình yêu của Ngài; đó là tóm lược của toàn bộ Sách Phúc Âm.”